remdaica51 Thành viên
Tổng số bài gửi : 157 A3 Dollars : 368 Số lân được cảm ơn: : 1 Join date : 24/10/2010 Age : 29 Đến từ : Đông Hà - Quảng Trị Mức cảnh báo :
| Tiêu đề: Hector Malot - Không gia đình (Chương 9,10) Mon Dec 06, 2010 10:28 am | |
| Chương 9 Một thành phố đen
Chúng tôi lại lên đường, không đói không mệt với hai mươi tám phrăng trong túi nhờ sự đón tiếp nồng nhiệt mà người ta đã dành cho chúng tôi nhân một đám cưới ở gần Villejuif. Phải nói rằng chúng tôi đã toàn tâm toàn lực chơi đàn cho cô dâu và các khách mời của cô nhảy. Với hai mươi tám phrăng trong túi, chúng tôi là hai vị chúa tể, khi tới Corbeil tôi đã có thể mua thoải mái một số thứ không dại dột chút nào: trước hết là một cây kèn đẩy cũ ở một cửa hàng sắt tuy không mới không đẹp nhưng được lau chùi kỹ càng bảo dưỡng cẩn thận, rất được việc cho chúng tôi; rồi những dây ruy-băng đỏ để buộc vào tất, cuối cùng một túi cũ của quân đội cho Mattia. Khi rời Corbeil, sau khi trả hết tiền những thứ đã mua, túi tiền chúng tôi có ba mươi phrăng bởi vì những cuộc biểu diễn ở.đây của chúng tôi thu được khá nhiều. Chúng tôi điều hòa các tiết mục sao cho ở lại nơi này được nhiều ngày. Sau nữa Mattia và tôi rất hợp nhau, đến nỗi coi nhau như hai anh em ruột. Sau khi rời Corbeil chúng tôi tiến về Mon-targis để tới nhà má Barberin. Bây giờ tôi đã giàu, tôi phải có quà tặng má chứ. Chẳng phải tìm tòi gì lâu. Có một thứ sẽ có thể làm má sung sướng hơn tất cả mọi thứ: đó là một con bò cái. Cái chính lúc này là làm sao biết giá. Lần đầu tiên tôi hỏi một ông lái bò ông này cười vào mũi tôi để trả lời. Nhưng tôi không để người ta làm cho bối rối. - Phải cho sữa tốt lại không ăn quá nhiều. Ông ta có một con bò cái đúng theo yêu cầu của tôi, nếu đưa ông năm mươi ê-quy thì con bò sẽ thuộc về tôi. Còn lâu tôi mới có đủ món tiền lớn đó. Chẳng lẽ không mua nổi nó sao? Khéo không mua nổi mất. Nhưng nếu vận may vẫn đến với chúng tôi như những ngày đầu tiên thì tôi có thể thu thập từng xu một lắm chứ! Chỉ cần có thời gian thôi. Lúc đó một ý tưởng mới nảy ra trong óc tôi. Đáng lẽ đầu tiên đi Chavanon thì hãy đi Varses đã, như vậy chúng tôi sẽ có đủ số thời gian bị thiếu nếu đi thẳng tới Chavanon. Phải đi Varses trước đã, lúc về mới tới nhà má Barberin. Buổi sáng tôi thông báo cho Mattia ý tôi, Mattia không phản đối gì cả. Chúng tôi mất ba tháng mới vượt qua ngần ấy cây số, nhưng tới gần Varses tôi vui mừng đếm tiền thấy mình đã tận dụng tốt thời gian: chúng tôi có một trăm hai mươi tám phrăng, chỉ thiếu hai mươi hai phrăng là mua được con bò cái. Từ Varses tới Chavanon chắc chắn chúng tôi sẽ kiếm được khá. Varses, cách đây một trăm năm, chỉ là một ngôi làng nhỏ hẻo lánh giữa núi non. Thật quả trên mặt đất thật hiu quạnh: chỉ có đá vôi, đất truông, không cây cối ngoài đây đó mấy cây dẻ, cây dâu tằm và vài cây oliviers còm cõi; đất không trồng trọt được, chỗ nào cũng thấy đá xám, đá trắng; chỉ những nơi đất hơi sâu một chút mới.có chút ẩm thấp để một ít thực vật sống được làm nổi bật lên trông rất vui mắt. Vì nơi đây trơ trụi như thế nên hay xảy ra những trận lụt kinh khủng: mỗi khi trời mưa, nước cứ chảy theo những sườn dốc trụi cây như trên một đường phố lát đá và những con suối xưa nay cạn khô nay chảy ào ào như thác làm cho bỗng chốc bao nhiêu sông trong thung lũng đầy ắp lên rồi tràn ra, chỉ vài phút nước ngập đến năm mét và hơn cả thế nữa. Khi chúng tôi tới ngoại vi Varses là ba giờ chiều, mặt trời rực rỡ tỏa trên bầu trời trong vắt, nhưng càng tiến tới ngày càng tối đi; giữa bầu trời và mặt đất một đám mây khói dày đặc bốc từ những ống khói nặng nề ra xâu xé lẫn nhau rồi lan dài ngột ngạt. Từ hơn một giờ nay chúng tôi nghe thấy những tiếng vù vù rất mạnh, những tiếng rì rào như tiếng rì rào của biển cùng với những tiếng đập đùng đục. Tiếng vù vù thì là tiếng quạt rồi còn những tiếng đục là tiếng búa và tiếng vồ. Tôi chỉ biết chú của Alexis là công nhân mỏ làm việc ở mỏ Truyère và chỉ có thế. Chú ở Varses hay ngoại ô Varses? Vào tới làng tôi hỏi thăm mỏ ở đâu, người ta chỉ cho tôi đến bờ bên trái của con sông Di-vonne. Người ta cũng cho chúng tôi địa chỉ của chú Gaspard, chú ở cách đấy một quãng ngắn trong một phố quanh co và dốc đứng từ ngọn đồi xuống con sông. Khi hỏi thăm ông thì một người đàn bà đang nói chuyện với một bà hàng xóm đã trả lời là làm việc xong đến sáu giờ ông mới về. - Thế cháu hỏi ông ấy có việc gì? - Cháu muốn gặp Alexis. Bà bèn nhìn tôi từ đầu đến chân và nhìn Capi. - Cháu là Rémi phải không? Alexis có nói chuyện với chúng tôi, nó đợi cháu đến đấy. Thế còn cậu này là ai? - Là bạn cháu ạ. Đó là bà thím của Alexis. Tôi cứ tưởng bà ta mời chúng tôi vào trong nhà nghỉ ngơi vì đôi chân đầy bụi cũng như khuôn mặt sạm nắng gió của chúng tôi cho biết rõ chúng tôi mệt lắm; thế nhưng bà ta chẳng làm gì cả chỉ nhắc lại là nếu chúng tôi quay lại lúc sáu giờ thì sẽ gặp Alexis. Cách đón tiếp như vậy làm chúng tôi không muốn quay lại nhà làm gì nữa, chúng tôi đi đến đợi Alexis ở cửa vào mỏ lúc gần sáu giờ..Tôi đứng đó với Mattia và Capi và sau sáu giờ độ vài phút tôi bắt đầu nhìn thấy từ trong đường hầm sâu thẳm và tăm tối những chấm sáng lớn dần. Đó là những người thợ mỏ tay cầm đèn trở lên chốn ban ngày ban mặt. Họ đi rất chậm, bước đi nặng nề tựa như bị đau đầu gối vậy, điều đó sau này tôi mới biết, khi mà tôi bước xuống những bậc lên xuống của chiếc thang dẫn xuống mức sâu nhất của mỏ; mặt họ đen như mặt những người nạo ống khói, áo quần và mũ họ phủ đầy bụi than cùng những mảng bùn ướt. Qua kho để đèn, từng người đi vào treo đèn lên một cái đinh. Mặc dù rất chú ý tôi không nhìn thấy Alexis, nếu anh không nhảy lên bá cổ tôi hẳn tôi đã để anh đi qua trước mặt mà không biết: đen từ đầu đến chân như thế bây giờ anh đâu còn giống người anh của tôi vẫn thường chạy trên những lối đi ở vườn xưa kia? - Đây là Rémi. - Anh vừa nói vừa quay lại phía một người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi đi bên cạnh. Tôi biết ngay đấy là chú Gaspard. - Bọn chú chờ cháu đã lâu. - ông hiền từ nói. Capi mừng rỡ vì gặp lại Alexis. Trong khi đó tôi giải thích cho chú Gaspard ràng Mattia là một người bạn của tôi, một cậu bé rất khá mà tôi đã quen từ lâu, chơi kèn đẩy không kém gì ai. - Còn đây là Capi chứ gì, - chú Gaspard nói, - ngày mai là chủ nhật: nghỉ ngơi xong bọn cháu biểu diễn cho chúng tôi xem một buổi nhé. Alexis nói là con chó này thông thái hơn cả một ông giáo hoặc một kịch sĩ đấy. Tôi lúng túng trước mặt bà thím bao nhiêu thì thoải mái với ông chú bấy nhiêu. Khi sắp sửa về tới nhà, chú Gaspard lại gần chúng tôi: - Bọn cháu ăn tối với chúng tôi nhé. Chưa bao giờ có một lời mời nào làm tôi vui đến thế bởi vì tôi đang tự hỏi liệu đến cửa chúng tôi có phải chia tay nhau hay không, cách đón tiếp của bà thím chẳng làm tôi mảy may hy vọng. - Đây là Rémi, - ông nói khi bước vào nhà, - và bạn của cháu. - Tôi đã gặp các cậu ấy rồi. Được trôi qua buổi tối cùng ông, tôi thật sung sướng, thật tình mà nói tôi cũng sung sướng.được ăn cơm tối nữa. Suốt từ Paris chúng tôi cứ gặp đâu ăn đấy, ít khi được ăn một bữa cơm thực sự. Thực ra với những gì thu được chúng tôi cũng khá giàu, đủ để ăn những bữa cơm sang trọng trong các quán, nhưng còn phải dành tiền tậu bò nữa. Cơm tối kéo dài không bao lâu. - Cháu sẽ ngủ với Alexis nhé. - Chú Gaspard bảo tôi. - Còn Mattia, nếu cháu đồng ý ngủ trong lò bánh mì, chú sẽ làm cho cháu một cái giường đệm rơm. Tối và phần lớn đêm đó tôi và Alexis dùng để bàn chuyện. Chú Gaspard là thợ cuốc than, nghĩa là ông cuốc than trong mỏ bằng một cái cuốc chim. Alexis là người đẩy goòng, có nghĩa đẩy than trên một toa xe gọi là xe goòng trên đường ray từ nơi than được cuốc ra cho tới một cái giếng. Xe goòng trong có chứa than khi đến giếng được móc vào một dây cáp có máy đưa lên trên mặt đất. Dù cho mới là thợ mỏ có ít lâu, Alexis đã yêu mỏ, tự hào về mỏ, theo anh đó là cái mỏ đẹp nhất, ly kỳ nhất xứ sở này, anh đặt vào câu chuyện kể của mình tất cả tầm quan trọng của một người khách phương xa đến từ vùng đất lạ tìm được những đôi tai chú ý lắng nghe mình. Alexis tiếp tục kể về cuộc sống của mỏ, những hiểm nguy của mỏ như vụ nổ ga khủng khiếp tức là nổ khí mỏ vài tuần trước đây làm chết hàng chục công nhân mỏ, tai nạn này gây cho anh một ấn tượng rất mạnh. Những gì Alexis kể kích thích trí tò mò của tôi đến nỗi tôi muốn xuống mỏ nhưng muốn xuống mỏ phải là thợ mỏ đã. Tuy nhiên, một sự tình cờ đã khiến tôi cảm nhận được tất cả nỗi hãi hùng đôi khi vẫn đe dọa thợ mỏ. Tối hôm trước ngày tôi lên đường, Alexis về nhà với một bàn tay bị giập do một tảng than rơi vào. Một ngón tay anh nát ra đến một nửa, cả bàn tay giập tím bầm lại. Bác sĩ của công ty đến nhà thăm và băng bó cho anh. Vết thương không trầm trọng như Alexis phải nghỉ việc. Chú Gaspard có tính cách là đời làm sao ông chấp nhận làm vậy, chẳng buồn chẳng giận bao giờ, nhưng có một điều khiến ông mất cả hiền lành: đó là có cái gì cản trở công việc của ông..Khi biết Alexis phải nghỉ làm việc trong nhiều ngày, ông kêu tướng lên. Ai sẽ đẩy xe goòng trong suốt thời gian này? Chẳng có ai thay nó cả, mỏ đang thiếu người nhất là trẻ con. Ông đi tìm một người đẩy xe goòng nhưng lại về không. ông bắt đầu phàn nàn. Thấy ông buồn và hiểu vì sao ông buồn, đồng thời cảm thấy có nghĩa vụ trong trường hợp này, mình nên có cách riêng để đền đáp lòng hiếu khách của ông đã dành cho chúng tôi, tôi bèn hỏi ông đẩy goòng có khó lắm không. - Chỉ việc đẩy nó trên đường ray. - Xe có nặng không ạ? - Không đến nỗi nặng lắm. - Alexis đẩy được thì chắc là cháu cũng đẩy được. Ông cười ầm lên nhưng sau đó trở lại đứng đắn ngay: - Cháu là cậu bé tốt quá, đúng thế đấy, ngày mai cháu xuống mỏ với chú. Đúng là cháu giúp chú, nhưng có lẽ cũng có ích cho cháu. Nếu cháu thấy thích công việc này, thì nó còn hơn là cứ lang thang trên đường. Nhưng nếu như thế thì Mattia sẽ làm gì? Tôi bèn hỏi nó có muốn cùng Capi đi biểu diễn trong vùng lân cận không thì nó đồng ý. - Tớ sẽ rất hài lòng tự mình kiếm nốt tiền tậu bò. - Nó cười nói. Qua ba tháng chúng tôi cùng ở với nhau, sống giữa không khí thoáng đãng, Mattia đã khác xa cậu bé ốm yếu mà tôi gặp đang đứng dựa vào nhà thờ Saint - Médard. Mặt trời và cuộc sống ngoài trời đã đem lại sức khỏe cho nó, làm nó vui lên. Suốt hành trình lúc nào nó cũng vui, cũng cười. Nếu không có nó không hiểu tôi sẽ ra sao? Chúng tôi thỏa thuận với nhau trong thời gian tôi xuống mỏ Mattia sẽ đi biểu diễn để tăng thêm thu nhập. Sáng hôm sau người ta đưa cho tôi bộ quần áo lao động của Alexis. Tôi đi theo chú Gaspard. - Chú ý vào nhé, - ông đưa cái đèn cho tôi, - cứ theo chú mà đi. Chúng tôi đi sâu vào đường hầm, ông đi trước. - Cháu mà trượt chân ở bậc thang thì bám chặt vào nhé, ở dưới kia sâu lắm và cứng lắm đấy..Không cần phải nghe những lời dặn dò này tôi đã đủ xúc động rồi, bởi vì từ chỗ ánh sáng bước vào trong đêm tối, từ mặt đất bước vào trong lòng đất, ai chẳng thấy xốn xang trong lòng. Theo bản năng tôi quay lại phía sau: ban ngày chỉ còn là một chấm sáng nhỏ tít tận đầu kia. Tôi theo kịp bước chân chú Gaspard rất nhanh. - Đến bậc thang rồi đây này. - Chẳng bao lâu ông nói. Chúng tôi đến trước một cái lỗ đen ngòm và trong cái chiều sâu mà mắt tôi không thể lường nổi tôi thấy những vệt sáng đung đưa, ở đầu vào thì lớn sau cứ nhỏ dần đến độ chỉ còn là những chấm nhỏ khi chúng cứ càng ngày càng xa đi. Đó là đèn của những thợ mỏ đã vào mỏ trước chúng tôi. Tiếng họ nói chuyện nghe như tiếng rì rầm vẳng tới tận tai chúng tôi nhờ một luồng không khí âm ấm thổi vào mặt, luồng không khí có mùi gì đó mà lần đầu tiên tôi ngửi thấy: nó như mùi ê-te lẫn với mùi ét-xăng. Khi tới nơi làm việc, chú Gaspard chỉ cho tôi phải làm những gì, và khi goòng đầy ắp than, ông cùng đẩy với tôi để dạy tôi cách đẩy goòng tới tận giếng, dạy tôi cách đưa goòng vào những đường tránh khi gặp những người đẩy xe goòng tới từ phía ngược lại. Kể cũng có lý khi nói rằng nghề này không lấy gì làm khó lắm, sau vài giờ nếu như tôi chưa trở nên thành thạo thì cũng có thể gọi là làm được. Chỉ chưa khéo lắm chưa quen lắm mà thôi, bù vào đó tôi buộc phải mất nhiều sức hơn, kết quả là làm được ít hơn và mệt nhiều hơn. Cạnh nơi chú Gaspard làm việc, có một người đẩy goòng láng giềng với tôi, lẽ ra là một đứa trẻ như tôi và các bạn tôi, thì lại là một cụ già râu bạc trắng; nói bạc trắng vì vào ngày chủ nhật, ngày ai nấy tắm rửa sạch sẽ, bởi qua cả một tuần lễ, ngày thứ hai râu xám ngày thứ bảy râu đen. Cụ đến ngoài sáu mươi tuổi. Ngày xưa, thời còn trẻ, cụ là thợ gỗ, có nghĩa chịu trách nhiệm bảo trì các cột chống bằng gỗ để chống hầm, nhưng sau một vụ sụt hầm cụ bị nghiền nát ba ngón tay đành phải bỏ nghề. Công ty của cụ có cho cụ một chút tiền trợ cấp vì tai nạn này xảy ra khi cụ cứu ba công nhân bạn. Cụ sống bằng tiền trợ cấp đó được vài năm. Công ty của cụ phá sản, cụ chẳng còn nguồn nào mà sống, chẳng thuộc diện nào, cụ phải vào mỏ.Truyère đẩy goòng. Họ gọi cụ là cụ giáo, bởi vì cụ hiểu biết nhiều điều mà các thợ cuốc, thợ mỏ bậc thầy còn phải chịu, những người này sẵn sàng nói lên như vậy. Trong giờ ăn cơm chúng tôi làm quen với nhau và cụ thân với tôi rất nhanh. ở trong mỏ thường người ta ít nói vì thế người ta gọi chúng tôi là những người hay chuyện. Những câu chuyện kể của Alexis không cho tôi biết hết những điều tôi muốn biết, những câu trả lời của chú Gaspard cũng không làm tôi thỏa mãn, bởi vì khi tôi hỏi chú: - Than đá là gì hả chú? Thì lúc nào chú cũng chỉ trả lời: - Là than tìm được ở trong đất. Nhưng khi tôi hỏi cụ giáo cũng câu hỏi ấy thì cụ lại trả lời khác hẳn: - Nó không gì khác chỉ là than gỗ mà thôi: đáng lẽ cho vào lò sưởi những cái cây của thời đại chúng ta, ta lại cho vào đó cây cối mọc trong những khu rừng cổ đại đã biến thành than do sức mạnh của thiên nhiên, do cháy rừng, do núi lửa, do động đất. Và khi tôi ngạc nhiên nhìn cụ thì cụ nói: - Hôm nay ta không có thì giờ nói về chuyện đó, nhưng mai là chủ nhật, cháu đến tôi, tôi sẽ giải thích cho cháu. Ngày hôm sau tôi nói với chú Gaspard là mình đến thăm cụ giáo. - à, chú cười, thế là cháu đã tìm được người để chuyện trò rồi đấy hả, đi đi, nếu lòng cháu muốn vậy. Chỉ có điều là nếu như cháu học được cái gì ở cụ thì cũng đừng lên mặt ta đây nhé. Tôi bước vào thì cụ ra đón tôi. - Tôi đã gọi món biroulade rồi đấy, bởi vì tuổi trẻ có tai có mắt nhưng cũng có cả cổ họng nữa, muốn làm bạn với họ cách tốt nhất là làm thỏa mãn cả yết hầu họ. Món biroulade là món hạt dê nướng ngâm vào rượu trắng, ở vùng Cévennes này được mời ăn món đó là một vinh dự. - Sau khi ăn món biroulade, tôi sẽ cho cháu xem bộ sưu tập của tôi. Bộ sưu tập này vô cùng phong phú, ít nhất là theo đánh giá của tôi, nó chiếm toàn bộ chỗ ở của cụ, trên các bàn và các giá nếu là vật mẫu nhỏ, vật mẫu lớn thì xếp dưới đất. Đã từ hai mươi năm nay, cụ sưu tầm tất cả những cái gì mà cụ thấy hay hay gặp trong khi làm.việc, và bởi vì khu mỏ ở lưu vực sông Cère và sông Divonne rất nhiều thực vật hóa đá, cụ có những mẫu rất hiếm mà nhà địa chất học và tự nhiên học nào có được hẳn phải vô cùng sung sướng. Cụ vội nói và tôi cũng chăm chú nghe: - Bởi vì cháu muốn biết thế nào là than đá, cháu hãy nghe đây: mặt đất nơi chúng ta ở không phải lúc nào cũng như ngày nay. Có những thời kỳ mà nước ta phủ đầy loại cây giờ đây chỉ mọc ở những nước nhiệt đới. Rồi bỗng nhiên có một cuộc cách mạng, toàn bộ lớp thực vật này bị thay thế bằng một lớp thực vật khác hẳn, đến lượt nó lại bị thay thế bởi một lớp khác nữa, cứ như thế trong hàng ngàn, hàng triệu năm. Cây nhỏ cây lớn tích tụ lại, vừa phân hủy vừa chồng lên nhau sinh ra nhiều lớp than đá. Tôi sẽ cho cháu xem những mẫu lấy từ vỉa ta gọi là tường hay là mái còn mang dấu ấn của cây cối, được giữ như là thảo mộc giữa những tờ giấy của tập mẫu thảo mộc. Cuộc viếng thăm của tôi kéo dài đến đêm vì cụ hiểu biết quá nhiều và những lời giải thích của cụ làm tôi say mê.
Chương 10 Ngập lụt
Ngày hôm sau chúng tôi lại xuống mỏ. Tôi vừa đẩy chiếc xe goòng về phía giếng Sainte - Alphonsine lần thứ ba thì nghe thấy từ phía giếng một tiếng gầm khủng khiếp. Có chỗ nào sạt lở hay toàn bộ hầm bị sụt? Tôi lắng nghe, tiếng huyên náo vẫn tiếp tục và dội đi tứ phía. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là khiếp vía lên được, tôi nghĩ đến việc chạy trốn về phía thang nhưng vì đã nhiều lần bị mọi người chế giễu vì thói nhút nhát nên tôi xấu hổ mà đứng lại. Bỗng nhiên một lũ chuột luồn qua hai chân tôi mà chạy: rồi hình như tôi nghe thấy một tiếng lạ lùng lướt trên mặt đất và trên thành hầm với tiếng nước vỗ. Nơi tôi đứng vốn hoàn toàn khô cơ mà. Tôi lấy đèn soi rồi cúi xuống nhìn mặt đất. Đúng là nước, nước từ giếng đến và ngày càng dâng lên trong hầm..Bỏ xe goòng trên đường ray tôi chạy về nơi công trường làm việc. - Chú Gaspard ơi, trong mỏ có nước! - Vớ vẩn! - Chú nghe mà xem. Giọng tôi xúc động đến nỗi chú Gaspard ngừng cuốc để nghe, vẫn cái tiếng đó ngày càng to hơn, nghe càng thê thảm hơn. Không còn nhầm lẫn gì nữa. - Chạy nhanh đi thôi. - ông bảo tôi. Chú cầm lấy đèn, bao giờ đó cũng là động tác đầu tiên của người thợ mỏ, rồi lén ngay vào đường hầm. Chưa đi được mười bước thì tôi thấy cụ giáo cũng xuống đường hầm. Mực nước tăng rất nhanh, lúc này đã lên tới đầu gối làm chúng tôi tiến rất chậm. Cả ba chúng tôi lúc đi qua các công trường làm việc đều kêu to: - Chạy đi, nước vào mỏ rồi! Mực nước tăng với một tốc độ hoảng loạn, may thay chúng tôi ở ngay gần thang nếu không không thể nào đến đó được. Cụ giáo tới thang trước tiên. - Anh và cháu lên trước đi. Tôi già rồi, lương tâm yên ổn. Lúc này chẳng câu nệ lễ phép làm gì nữa, chú Gaspard lên trước, tôi theo sau rồi đến cụ giáo, sau cụ một quãng cách khá xa mới đến vài công nhân theo kịp chúng tôi. Chưa bao giờ bốn mươi mét ngăn cách mức sâu thứ hai với mức sâu thứ nhất của mỏ được vượt nhanh như thế! Nhưng vừa tới nấc thang trên cùng thì một làn sóng nước ùa xuống đầu chúng tôi làm đèn của chúng tôi tắt ngóm. Thật là một thác nước! - Giữ cho chặt vào! - Chú Gaspard kêu. Chú, cụ giáo và tôi, chúng tôi bám thật chặt vào nấc thang để chống cự lại, những người đằng sau chúng tôi bị sóng kéo đi luôn, và chắc chắn là nếu chúng tôi còn phải leo mười nấc thang nữa hẳn chúng tôi cũng như họ đã bị rơi xuống rồi bởi vì chỉ ngay sau đó thác nước trở thành một khối lở ụp xuống. Lên tới mức trên cùng rồi chúng tôi vẫn chưa thoát, muốn lên khỏi mỏ còn năm mươi mét nữa và ngay cả tầng hầm này cũng có nước, ánh sáng thì không có..- Ta nguy rồi. - Cụ giáo nói với giọng hầu như bình tĩnh. - Rémi cháu cầu kinh đi. Cùng lúc đó có bảy tám ánh đèn chạy tới chỗ chúng tôi, nước lên tới đầu gối chúng tôi, không cần cúi xuống tay chúng tôi cũng chạm vào nước. Đó không phải là một thứ nước lặng mà là luồng nước cuốn, vừa trôi nó vừa kéo theo những tảng gỗ quay cuồng như những chiếc lông chim. Những người cầm đèn mà chúng tôi nhìn thấy định theo đường hầm đi tới thang và những bậc thang ở gần đấy, nhưng trước dòng thác như thế này thì việc đó không thể làm nổi bởi vì làm sao mà đẩy ngược được dòng nước cũng như kháng cự lại được sức thúc của nước và những tảng gỗ nó cuốn theo? Họ cũng thốt ra lời mà cụ giáo thốt ra lúc nãy: - Chúng ta nguy rồi! Họ tiến đến chỗ chúng tôi. - Đi lối này, phải rồi. - Cụ giáo nói, cụ là người duy nhất trong chúng tôi còn giữ được chút bình tĩnh. - Nơi duy nhất ta trú ẩn được là nơi công trường cũ ấy. Công trường cũ là một phần của mỏ đã bị bỏ đi từ lâu không ai lai vãng trừ cụ giáo, cụ vẫn thường tới thăm khu đó mỗi khi cần tìm hiểu một điều lạ lùng nào đó. - Các anh quay lại đi, - cụ ra lệnh, - đưa tôi một cái đèn, tôi sẽ dẫn các anh đi. Bình thường mỗi khi cụ nói người ta hay giễu cụ đôi chút nhưng lúc này tất cả mấy cái đèn đều được đưa ra. Cụ vội vàng cầm lấy một chiếc, tay kia kéo tôi đi, cụ dẫn đầu cả đoàn. Vì chúng tôi đi cùng chiều với dòng nước nên đi khá nhanh. Sau khi đi dọc theo đường hầm một lát, cụ dừng lại. - Ta không còn thời gian nữa rồi. Nước lên nhanh quá. Quả thật nước mau chóng chiếm cứ chúng tôi, từ đầu gối tôi nó lên tới háng, từ háng lên đến ngực. - Phải trèo vào một dốc ngách hầm thôi. -Cụ giáo nói. - Sau đó thì sao? Dốc ngách hầm chẳng dẫn đến đâu cả! Quả thực đó là một cái túi cùng, nhưng chúng tôi không còn thời gian chờ đợi và chọn.lựa, hoặc vào một dốc ngách hầm và có lấy vài phút trước mặt có nghĩa hy vọng sống sót hoặc cứ theo đường hầm mà đi dù biết chắc chắn chỉ vài giây là bị chìm nghỉm. Cụ giáo dẫn đầu, chúng tôi đi vào trong một dốc ngách hầm. Hai người trong số chúng tôi cứ đi theo đường hầm, chúng tôi không bao giờ trông thấy họ nữa. Trong mỏ là một sự huyên náo đáng sợ: tiếng đất đá sụt lở, tiếng nước xoáy, tiếng nước đổ xuống, tiếng gãy răng rắc của gỗ chống hầm, tiếng không khí bị nén nổ bùng, tất cả làm chúng tôi sững sờ mê muội. - Tận thế chứ không còn là cái gì nữa! - Lạy Trời, hãy thương chúng con! Suốt từ lúc vào trong dốc ngách hầm, cụ giáo không nói gì nữa, tâm hồn cụ bay bổng cao hơn những lời phàn nàn vô tác dụng. - Các con ơi, - cụ nói, - không thể để ta mệt thế được, nếu ta cứ dùng tay chân mà bấu vào vách dốc của ngách hầm như thế chẳng mấy chốc ta sẽ rời rã, phải đào lấy những điểm tựa giữa những phiến than đá. Lời khuyên đó rất đúng nhưng cũng rất khó thực hiện, có ai mang theo cuốc chim đâu, tất cả chúng tôi đều mang đèn nhưng không ai có một dụng cụ nào trong tay. - Lấy những cái móc ở đèn mà đào. - Cụ giáo nói. Thế là người nào người ấy bắt đầu đào đất, công việc chẳng dễ dàng gì, vách của ngách hầm vừa dốc vừa trơn. Nhưng ai cũng biết rằng nếu trượt tay trượt chân một cái là chết, vì thế mọi người đều đào khỏe đều khéo tay. Chỉ vài phút chúng tôi đã đào được một cái hốc đặt chân vào được. Những tiếng động trong mỏ vẫn dữ dội như trước. Chúng tôi sợ hãi nhìn nhau, người nọ tìm trong mắt người kia lời giải thích mà trí óc của bản thân mình không đem lại được. Cụ giáo, sau một hồi im lặng, nói tiếp: - Chúng ta đang ở trong không khí của một cái chuông, không khí bị nước dồn ép tụ lại trong hầm này đến bây giờ lại kháng cự lại nước và đẩy lùi nước. Chẳng khác gì người ta vứt một cái cốc úp ngược xuống nước trong một cái xô, nước không bao giờ tràn lên đáy cốc cả. Cái cốc vẫn rỗng nhờ không khí ở trong. ở đây cũng thế. Nước không thể lên đến chỗ.chúng ta được. Ta không chết đuối nhưng cũng khó mà sống sót. Không khí không thoát đi đâu được vì ngách hầm này đóng kín. Không khí tù hãm thì ta cũng bị tù hãm. Im lặng và sợ hãi bao trùm một lúc. Cụ giáo lại nói tiếp: - Theo ý tôi tốt nhất chúng ta nên đào một cái thềm như chiếu nghỉ ở cầu thang ấy, chúng ta có bảy người hai cái thềm là đủ. Mọi người bắt đầu vào việc, thắp lên bốn cái đèn. Sau ba giờ làm việc không nghỉ, với móc đèn, với dao, chúng tôi đã đào được một cái thềm phẳng có thể ngồi trên đó được. - Phải tiết kiệm đèn, - cụ giáo nói, - thắp một cái thôi. Mỏ lúc này im lặng, dưới chân chúng tôi nước đứng yên. Trong mỏ đầy nước, sau khi tràn ngập tất cả mọi đường hầm từ đáy lên tới trần mỏ, nước giam chặt chúng tôi trong dốc ngách hầm này, giam chặt còn hơn trong những bức tường đá. Cái im lặng âm thầm không sao thâm nhập được còn đáng sợ, đáng ngạc nhiên hơn cả cái ồn ào huyên náo lúc nước vỡ ụp vào. Chúng tôi bị chôn sống trong một nấm mộ. Không khí nặng nề khó thở, chúng tôi ngột ngạt, tai ong ong lên. Không còn ý niệm nào về thời gian. Bây giờ là trưa hay là sáu giờ chiều? Bỗng nhiên giữa yên lặng có tiếng chú Gaspard cất lên: - Theo tôi ấy mà, - ông nói, - chưa ai làm gì để cứu chúng ta cả, ta đã nghe thấy gì đâu. - Phải làm cho họ thấy là ta còn sống, -cụ giáo nói, - hãy đập vào vách hầm thật mạnh vào. Không phải chờ, một người trong chúng tôi có đôi bốt to bắt đầu đập mạnh vào vách, tiếng động này cũng như ý tưởng gây ra tiếng động đó làm chúng tôi đỡ đờ đẫn. Người ta có nghe thấy tiếng chúng tôi không? Người ta có trả lời chúng tôi không? Một cuộc tranh luận nổ ra về việc mọi người sẽ dùng cách nào để cứu chúng tôi, kết quả là giả sử có một tập hợp nhân học đến ngoạn mục và trong những điều kiện thật thuận lợi, ít nhất chúng tôi cũng phải ở trong cái ngôi mộ này đến tám ngày. Tám ngày! Khi ý thức được điều này thì chúng tôi không ai bàn luận gì nữa. - Nghe kìa. - Một người thợ mỏ nói..- Cái gì vậy? - Có tiếng động trong nước. - Đó là anh làm rơi một miếng đá đấy. - Không. Tiếng này đục. Chúng tôi lắng nghe. Tai tôi vốn rất thính thế mà cũng chẳng nghe thấy gì cả. Những người bạn của tôi, vì đã quen với những tiếng động trong mỏ, phấn khởi hơn tôi. - Đúng rồi, - cụ giáo nói, - có cái gì đó trong nước thật. - Tiếng nước chảy xuống thôi. - Không. Tiếng này không liên tục mà từng hồi đều đặn. - Từng hồi đều đặn! Ta sống rồi! Các con ơi! Đó là tiếng những chiếc xe ben thả gầu xuống múc nước giếng lên! - Gầu tát nước! Thế là cùng một lúc tất cả chúng tôi hòa cùng một giọng lặp lại mấy tiếng này. Và chúng tôi nhỏm người lên. Không khí không còn ngột ngạt nữa, thành của dốc ngách hầm không còn đè nặng lên chúng tôi nữa, chúng tôi thở dễ dàng hơn, tim chúng tôi đập mạnh trong lồng ngực. Tuy nhiên, trước khi nhìn thấy ánh mặt trời, nghe tiếng gió thổi trong cành lá, chúng tôi còn phải ở lại đây trong nhiều ngày dài nghiệt ngã và thế là chúng tôi lại lo buồn tuyệt vọng. Trong lúc này người ta mau chóng tổ chức cứu nạn, các kỹ sư dẫn đầu đoàn thợ mỏ của các mỏ xung quanh chạy tới. Một đám đông, hốt hoảng vì những tiếng nổ tiếng rung cũng đổ tới. Một trăm hai mươi người gọi tên không thấy. - Chồng tôi đâu? - Cha tôi đâu? - Trả con tôi đây! Những giọng nói ngắt quãng, những câu hỏi nghẹn ngào vì nức nở. Biết trả lời thế nào? Và công cuộc cứu nạn bắt đầu. Người ta đào cầu may, nhưng họ cứ đào. Người ta đào vào các đường hầm một cách không mệt mỏi, người ta đặt các xe múc nước. Kỹ sư hy vọng là mọi người ẩn trong khu công trường cũ. Nếu như thời gian thật là dài đối với những người ở ngoài đang tìm cách giải phóng chúng.tôi, đối với chúng tôi, những tù nhân bất lực, nó còn đằng đẵng hơn nhiều. Tiếng xe múc nước chẳng làm cho niềm vui bột phát của chúng tôi lúc ban đầu tồn tại được lâu. Người ta cứu chúng tôi, đó là niềm hy vọng, nhưng tát cạn nước liệu có nhanh không? Đó là nỗi lo lắng. Đau đớn về tinh thần còn kèm thêm đau đớn về vật chất. Tư thế chúng tôi buộc phải cầm cự trên thềm nghỉ thật vô cùng mỏi mệt, không thể làm được cử động nào cho giãn gân cốt và chúng tôi nhức đầu ghê gớm. - Ta uống được không nhỉ? - Chú Gaspard hỏi. - Tha hồ, nước thì thiếu gì, - cụ giáo trả lời, - Rémi sẽ xuống lấy nước, nó nhẹ nhất mà. - Lấy vào đâu? - Lấy vào ủng của tôi đây này. - Một thợ mỏ tên là Carrory nói. Người ta đưa tôi chiếc ủng và tôi chuẩn bị xuống múc nước. - Chờ một chút, - cụ giáo nói, - để tôi đưa tay cho đã. Đúng lúc cụ cúi xuống, cụ nhào ra trước và không hiểu cụ lỡ đà hay do lâu không cử động người bị cứng, hoặc vỉa than lở ra dưới sức nặng của cụ, cụ trượt luôn xuống, đầu chúc chìm nghỉm trong nước. Chiếc đèn cụ soi cho tôi cũng biến mất. Ngay lập tức chúng tôi ngập trong bóng tối đen ngòm và một tiếng kêu thất thanh cùng lúc thoát ra từ ngực chúng tôi. Tôi đang trong tư thế xuống nước, tôi ngã ngửa người ra và lao xuống nước chỉ sau cụ giáo độ một giây. Ngay lập tức tôi cảm thấy một bàn tay co quắp bấu vào vai tôi và tôi bị kéo vào trong nước. Đạp chân một cái tôi ngoi lên: bàn tay vẫn bấu chặt vào tôi. - Cụ giữ chặt lấy cháu, cụ giáo ạ, cụ được cứu thoát rồi. Cứu thoát! Cả hai chúng tôi nào có ai được cứu thoát, vì tôi chẳng biết bơi về phía nào. - Thắp đèn lên. - Tôi nói. Ngay lập tức ánh đèn xuất hiện, tôi chỉ cần duỗi cánh tay là chạm vào bờ. Chú Gaspard và Carrory đưa tay họ cho chúng tôi, trong khi Pagès, một thợ mỏ khác, soi đèn cho chúng tôi. Cụ giáo được kéo lên thềm trong khi tôi đẩy cụ từ phía sau. Cụ lên rồi đến lượt tôi lên. - Lại đây cháu, - cụ nói, - để tôi ôm hôn cháu. Cháu đã cứu tôi. - Thì cụ đã cứu sống tất cả chúng cháu đấy thôi. - Thế là, - Carrory nói, - anh ta là người không bao giờ bị ảnh hưởng bởi xúc động, tôi mất chiếc bốt à? - Để cháu đi tìm. Nhưng mọi người ngăn tôi lại. - Thôi, mọi người hãy đưa cháu chiếc bốt khác vậy, ít nhất cháu cũng đem được nước về! Thoát khỏi chết đuối, cụ giáo và tôi bị ướt sũng từ đầu đến chân làm cho chân tay căng rời rã. Lạnh cóng làm chúng tôi không thể quên được chuyện đó. Mọi người đưa áo vét cho chúng tôi. Sau sự cố này chúng tôi lại mê muội cả người và nghĩ đến cái chết. Có lẽ ý nghĩ này đè nặng lên các bạn tôi hơn là tôi vì trong khi họ tỉnh thì cuối cùng tôi ngủ thiếp đi. Nhưng chỗ ngồi không thoải mái chút nào có nguy cơ rơi xuống nước. Lúc đó cụ giáo giữ đầu tôi trong cánh tay cụ. Cụ giữ không quá chặt chỉ đủ để tôi đừng rơi xuống nước mà thôi, tôi như một đứa trẻ nằm trên đầu gối mẹ. Cụ không phải chỉ có cái đầu vững vàng mà còn có một trái tim nhân hậu nữa. Khi tôi hơi thức dậy, cụ đổi tay cho đỡ mỏi rồi lại ngồi thật im và bảo tôi: - Cháu cứ ngủ đi, đừng sợ. Và tôi lại ngủ tiếp. Thời gian cứ trôi. Tư thế của chúng tôi không còn chịu đựng nổi nữa. Liệu đã đến lúc chúng tôi được cứu ra chưa? Chúng tôi nghi ngờ vô cùng. Tuy nhiên việc tát nước được tiến hành không ngừng dưới sự lãnh đạo của một ông kỹ sư luôn động viên thợ mỏ với một niềm tin, một hy vọng sắt đá. - Các bạn ơi, còn một ngày nữa, - ông nói với những người thợ mỏ, - tôi đòi hỏi ở các bạn những gì mà những người bạn của các bạn đòi hỏi, các bạn ở địa vị họ mà xem. Niềm tin khiến ông hăng hái đã truyền sang trái tim những người thợ mỏ. Người ta cứ đào sâu xuống mãi. Đến ngày thứ bảy, trong khi thay đổi vị trí, một người thợ cuốc vào tới vỉa than tưởng như nghe thấy những tiếng đập yếu ớt. Anh ta dán tai vào lớp than rồi gọi một người.bạn đến cùng nghe với mình. Cả hai im lặng và một lát sau một tiếng yếu ớt đều đặn lặp đi lặp lại vẳng tới tai họ. Đến lượt họ, họ lấy cuốc chim gõ gõ. Lập tức tin này được truyền đi rất nhanh. Ông kỹ sư đã đúng! Dưới đó vẫn còn có người sống. Tin tức lan khắp thành phố như một vệt thuốc súng, đám đông chạy tới mỏ Truyère. Công việc càng khẩn trương hơn, các công ty bạn gửi đến những thợ cuốc tinh nhuệ nhất. Hy vọng cũng tăng lên khi nước rút dần. Trong ngách hầm, lúc nghe thấy tiếng gõ trả lời của các bạn, chúng tôi bị tác động chẳng kém gì lúc nghe thấy tiếng xe múc nước thả gàu xuống các giếng. - Thoát rồi! Ai nấy thốt ra một tiếng kêu vui mừng. Rồi, cũng giống như sau khi nghe thấy tiếng gầu múc nước, hy vọng lại biến thành tuyệt vọng. Tiếng cuốc chim cho biết những người cứu nạn còn ở xa lắm. Chỉ có cụ giáo là còn nói năng một cách can trường nhưng dần dần sự ủ rũ của chúng tôi cũng lan sang cụ. Nếu như chúng tôi có thể uống thì chúng tôi không thể có cái ăn, cái đói trở nên không còn có thể chịu nổi nữa. Chúng tôi ngồi im không động đậy, chỉ còn duy trì cuộc sống bằng tiếng cuốc chim và tiếng gàu múc nước. Dần dần những tiếng động này ngày càng to lên, nước rút xuống, người ta đến gần chúng tôi hơn. Nhưng họ có đến kịp không? Chúng tôi ngày càng yếu lắm rồi. Cuối cùng chúng tôi nghe thấy tiếng nói của các bạn tôi, họ nghe thấy tiếng chúng tôi. Rồi chúng tôi nói chuyện được với họ. Họ thốt lên mấy tiếng thống thiết sau đây: - Các anh có bao nhiêu người? Chú Gaspard trả lời: - Sáu! Im lặng một hồi. Có lẽ ở ngoài hy vọng một con số lớn hơn. - Mau lên các bạn, - chú Gaspard kêu lên, -chúng tôi kiệt sức rồi. - Tên các bạn là gì? - Bergounhoux, Pagès, Carrory, cụ giáo, Rémi, Gaspard. Đó là lúc điếng người nhất cho những người đứng ngoài. Khi ông kỹ sư tuyên bố chúng tôi chỉ có sáu, mọi người thất vọng đến đau đớn..Hỡi ôi! Trong số một trăm hai mươi người mẹ và người vợ chỉ có bốn người niềm hy vọng trở thành sự thực. Biết bao đau đớn! Biết bao nước mắt! Về phía chúng tôi, chúng tôi nghĩ đến những người có thể được cứu thoát. - Có bao nhiêu người được cứu thoát? Không ai trả lời. - Chắc họ không nghe tiếng. - Họ không muốn trả lời thì đúng hơn. - Hãy hỏi họ xem chúng ta đã ở trong mỏ bao nhiêu lâu? - Mười bốn ngày. Giờ thì không còn lâu nữa đâu. Các bạn hãy can đảm lên. Chỉ còn vài giờ nữa thôi. Tôi tưởng như mấy giờ này là những giờ dài nhất trong cảnh tù hãm của chúng tôi, dù thế nào đi nữa cũng là những giờ đau khổ nhất. Mỗi nhát cuốc chúng tôi lại tưởng là nhát cuốc cuối cùng. Nhưng sau nhát đó lại tiếp đến nhát khác, sau nhát khác này lại đến nhát khác nữa. Các xe múc nước cũng không ngừng hoạt động phút nào, nước cứ từ từ rút xuống. Có điều lạ là giờ phút giải phóng càng tới gần chúng tôi càng yếu lả đi. Cuối cùng dốc ngách hầm được mở ra từ phía trên: ánh đèn rọi vào làm chúng tôi lóa mắt. Nhưng chỉ trong phút chốc chúng tôi lại rơi vào bóng tối đen ngòm: một luồng không khí khủng khiếp làm tắt phụt đèn! Lại phải chờ thêm! Cùng một lúc có tiếng động mạnh trong nước ở dưới hầm, và quay lại tôi thấy một ánh sáng chói di động trên nước lõm bõm. - Can đảm lên! Can đảm lên! - Người ta kêu lên. Mọi người đồng thời đến cứu chúng tôi từ hai phía. Chưa kịp nói lời nào tôi đã rơi vào tay ông kỹ sư. Vừa vặn tôi ngất đi. Tôi ý thức được là người ta mang tôi đi, rồi người ta bọc tôi vào trong nhiều tấm chăn. Tôi nhắm mắt lại nhưng ngay sau đó tôi cảm thấy một cái gì chói lọi đến nỗi phải mở mắt ra. Chúng tôi ra đến giữa trời. Cùng một lúc một cái bóng trắng nhảy vào tôi: đó là Capi nhảy phắt vào hai tay ông kỹ sư.để liếm vào mặt tôi. Tôi cũng cảm thấy có ai nắm lấy bàn tay phải tôi và hôn tôi. Đó là Mattia. Tôi nhìn xung quanh: một đám đông vô kể, im lặng và xúc động. Người ta mang tôi đến tận văn phòng mỏ, ở đó đã có sẵn những cái giường chờ đợi chúng tôi. Hai ngày sau tôi đi bộ trong phố xá Varses, tất cả mọi người trên đường đều dừng lại nhìn tôi. Có những người đến bắt tay tôi, nước mắt lưng tròng. Cũng có những người, ngược lại, lại quay đi. Đó là những người đang tang tóc, họ xót xa tự hỏi tại sao thằng bé mồ côi này lại sống sót trong khi người chủ gia đình nọ, cậu con trai kia lại ở lại dưới mỏ, lại là những cái xác khốn khổ bị nước cuốn đi. |
|